8 Thông số về dầu mỡ bôi trơn công nghiệp bạn cần biết
Posted on Thứ Năm, 31 tháng 3, 2022
Thao tác kiểm tra thông số các loại
dầu mỡ bôi trơn tại đà nẵng trên là bước quan trọng khi bạn quyết định mua một loại dầu
nhớt nào về phục vụ sản xuất. Mọi người thường thường sẽ kiểm tra chi tiết các
thông số kỹ thuật của dầu như chỉ số độ nhớt, nhiệt độ chớp cháy, điểm chớp
cháy, trị số kiềm tổng TBN, trị số Axit tổng TAN, trị số trung hòa, tính ổn định
oxi hóa, ăn mòn lá đồng, ăn mòn lưu huỳnh là gì,… để quyết định mua loại nào dầu
nhớt nào phù hợp với từng loại máy móc công nghiệp. Vậy bạn đã hiểu được các
thông số trên là gì chưa? Trong bài viết này MHL sẽ hướng dẫn bạn cách đọc mọi thông
số kỹ thuật của một sản phẩm dầu nhớt như thế nào.
CHỈ SỐ ĐỘ NHỚT (Viscosity Index – VI):
Chỉ số độ nhớt ( Viscosity Index
– VI ) Là sự thay đổi độ nhớt của dầu nhờn trong khoản nhiệt độ cho trước. Dầu
nhờn có độ nhớt biến đổi lớn theo nhiệt độ VI thấp. Dầu nhờn có độ nhớt biến đổi
nhỏ theo nhiệt độ VI cao. Trong đồ thị ASTM: độ dốc của đường
* LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÓ DẦU NHỜN CÓ
VI CAO?
Phải chọn dầu gốc có VI cao.
Phải thêm phụ gia cải thiện tăng
cường độ nhớt (VII – Viscosity Index Improver)
Hoặc phải phối hợp cả hai phương
pháp nói trên
NHIỆT ĐỘ CHỚP CHÁY/ĐIỂM CHỚP CHÁY CLEVELAND (cốc hở)
Định nghĩa nhiệt độ chớp cháy
(NĐCC), điểm chớp cháy (ĐCC):
Như vậy: Nhiệt độ chớp cháy là
nhiệt độ mà tại đó lượng hơi thoát ra từ bề mặt của mẫu dầu nhờn sẽ bốc cháy
khi có ngọn lửa đưa vào.Và nhiệt độ thấp nhất mà tại đó hơi thoát ra từ mẫu dầu
nhờn vần tiếp tục cháy được trong 5 giây gọi là điểm bắt lửa.
Điểm chớp cháy và điểm bắt lửa phụ
thuộc vào độ nhớt của dầu nhờn:
Dầu nhờn có độ nhớt thấp thì điểm
chớp cháy và điểm bắt lửa thấp
Ngược lại, dầu nhờn có độ nhớt
cao điểm chớp cháy và điểm bắt lửa cao.
Điểm chớp cháy và điểm bắt lửa
cũng phụ thuộc vào loại dầu gốc:
Nói chung, đối với các hợp chất
tương tự nhau thì điểm chớp cháy và điểm bắt lửa tăng khi trọng lượng phân tử
tăng.
* TẠI SAO PHẢI CẦN THỬ NGHIỆM VÀ XÁC ĐỊNH ĐIỂM CHỚP CHÁY?
Vì:
Phòng chống cháy nổ khi dầu nhờn
làm việc ở nhiệt độ cao.
Tránh tổn thất hoặc hao hụt (bay
hơi) nghĩa là dầu nhờn phải làm việc trong môi trường mà nhiệt độ cao nhất tại
đó phải thấp hơn nhiệt độ chớp cháy của dầu để tránh tổn thất của dầu nhờn do
bay hơi cũng như cháy nổ.
Thông thường nhiệt độ chớp cháy của
dầu đã sử dụng không thay đổi nhiều so với dầu mới. Nếu thấp hơn nhiều là do trộn
lẫn vô số chất có điểm chớp cháy thấp (nhiên liệu). Nếu cao hơn là do dầu bị
nhiểm bẩn hoặc do lẫn với dầu nhờn có độ nhớt cao hơn.
Để xác định nhiệt độ chớp cháy có 02 phương pháp:
Phương pháp cốc hở Cleveland (COC
+ Cleveland Open Cup)
Phương pháp cốc kín Pensky –
Marsten (PMCC – Pensky Martens Closed Cup)
TRỊ SỐ KIỀM TỔNG TBN (ASTM D 2896)(Đồ thị tương quan giữa TBN & %S)
Phương pháp thử nghiệm theo tiêu
chuẩn ASTM D 2895 rất thông dụng đối với dầu động cơ Diesel
Định nghĩa: Trị số TBN là độ kiềm
trong dầu bôi trơn cho biết lượng Acid Percloric (HCLO4) được quy đổi tương
đương lượng KOH (tính bằng mg) cần thiết để trung hòa hết các hợp chất mang
tính kiềm có trong 1 gram mẫu dầu nhờn.
Tại sao trong dầu nhờn động cơ diesel phải có TBN?
Trước hết ta hãy xem lưu huỳnh
trong nhiên liệu dầu DO hoặc HFO tác động đến xylanh và piston như thế nào ?
Hầu hết nhiên liệu đều có chứa
lưu huỳnh (S)
DO: S £ 0.5%
HFO: 0.5%
Lưu huỳnh tồn tại trong nhiên liệu
dưới dạng hợp chất lưu huỳnh và các phân tử Hydro carbon.
Trong quá trình cháy nổ: S + O2 ®
SO2 (nhiệt độ cao và dạng khí)
SO2 không cháy nhưng ở nhiệt độ
cao lại phản ứng với O2 cho ra SO3 và toả nhiệt
Vậy để tránh xảy ra vấn đề trên
thì:
Giảm hàm lượng lưu huỳnh trong
nhiên liệu (S = 0.04% – 0.05%) nhưng chi phí sản xuất cao (dùng cho các động cơ
Diesel CAT, API, CG4 ® TOTAL Rubia 6400)
Hoặc đưa một lượng kiềm cần thiết
vào trong dầu nhờn để trung hòa lượng Acid sinh ra trong quá trình cháy nổ của
động cơ Diesel.
Đó là lý do có thông số TBN trong
dầu nhờn động cơ Diesel.
Tuy nhiên, thường các nhà chế tạo
động cơ Diesel đưa ra mức TBN trong dầu nhờn tương ứng với hàm lượng lưu huỳnh
có trong nhiên liệu(%S)
TRỊ SỐ AXÍT TỔNG (TAN)
Định nghĩa: Là lượng kiềm KOH
(tính bằng mg) cần thiết để trung hòa hết tất cả các hợp chất mang tính axit có
trong 1g mẫu dầu nhờn.
Thường thấy ở dầu cách điện
(Diala)
Dầu máy nén khí lạnh
(Refrigeration Oil)
Đông gia chuyên thi công xây dựng tại Hồ Chí Minh và nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn.
Tại sao phải giới hạn TAN trong dầu nhờn ?
Đối với hầu hết các loại dầu bôi
trơn đều có chỉ số TAN ban đầu tương đối nhỏ và tăng dần trong quá trính sử dụng.
Khi TAN tăng lên sẽ đánh mất tính năng chống oxy hóa của dầu nhờn và lúc đó dầu
lại bị oxy hóa làm cho TAN trong dầu lại tiếp tục tăng lên và sẽ làm giảm tuổi
thọ của dầu.
Chỉ số TAN của dầu đã sử dụng (dầu
thải) là một đại lượng đánh giá mức độ biến chất của dầu do quá trình oxy hóa.
Tuy nhiên đó không phải là tiêu chuẩn duy nhất để xác định sự biến chất của dầu
do quá trình oxy hóa mà phải còn phải xem xét đến thông số khác như: độ nhớt,
hàm lượng tạp chất cơ học và cặn.
Lưu ý:
Đối với dầu có phụ gia chống mài
mòn kẽm Diankyl Dithiophotphat (Zn DDP) như dầu thủy lực thì có chứa hàm lượng
axit ban đầu cao nên giá trị TAN ban đầu không thể tiên đoán chính xác chất lượng
của dầu và trong giai đoạn đầu sử dụng TAN thay đổi đáng kể và đánh mất đi tính
năng chống oxy hóa của dầu.
Tại sao phải giới hạn TAN trong dầu biến thế ?
Những yếu tố quan trọng trong dầu
biến thế:
Khả năng cách điện.
Độ sạch của dầu (cặn bẩn)
Độ ẩm, khả năng chống oxy hóa.
TRỊ SỐ TRUNG HÒA:
Thực chất là trị số acid trong dầu
nhờn. Tuy nhiên tùy theo loại và tính chất yêu cầu của dầu nhờn mà người ta xét
đến TAN hoặc TBN.
Nếu là dầu động cơ thì trị số TBN
là quan trọng hơn người ta dùng axit Perclohyric (HCLO4) để xác định tính kiềm
của mẫu dầu (TBN) từ lượng HCLO4 tiêu hao để trung hoà kiềm trong mẫu dầu ta
xác định được lượng kiềm trong mẫu. Nhưng vì để thống nhất đơn vị người ta quy
định lượng HCLO4 ra tương đương mg KOH.
Ngược lại đối với dầu biến thế, dầu
turbin, dầu máy nén khí lạnh thì trị số TAN là quan trọng dễ ảnh hưởng đến tính
chất và khả năng sử dụng của dầu. Do đó để xác định hàm lượng TAN (đối với dầu
mới lẫn dầu cũ) có nằm trong phạm vi cho phép không, thì người ta dùng kiềm KOH
để trung hoà lượng axit có trong mẫu dầu, lượng KOH tiêu hao này cho đến khi mẫu
đến đích trạng thái trung hòa chính là lượng axit có trong dầu.
Tại sao cần phải xác định hàm lượng nước trong dầu nhờn?
Bởi vì:
Hàm lượng nước trong dầu bôi trơn
là một đặc trưng quan trọng đối với:
Dầu thủy lực, dầu máy nén khí.
Dầu bánh răng công nghiệp.
Dầu động cơ Diesel.
Dầu turbin.
Dầy xylanh hơi nước.
Đặc biệt nó cực kỳ quan trọng đối
với dầu biến thế.
Nước trong dầu bôi trơn không những
đẩy nhanh sự ăn mòn và oxy hoá mà còn gây ra hiện tượng nhủ tương. Trong một
vài trường hợp nó còn gây ra hiện tượng thủy phân các phụ gia tạo ra cặn bùn.
Nếu hàm lượng nước trong dầu nhờn
công nghiệp không phải ở mức vết/trace (0.1% wt) thì phải loại chúng bằng
phương pháp ly tâm, cất chân không hoặc lọc.
Một số chỉ tiêu giới hạn trong dầu
nhờn đối với hàm lượng nước:
Dầu động cơ diesel: không có hoặc
Dầu biến thế: không có hoặc
Dầu thủy lực: không có hoặc 0.2%
wt thì phải thay vì sẽ ăn mòn hệ thống thủy lực và thủy phân các hợp chất phụ
gia.
Dầu hộp số: hàm lượng nước 0.5%
wt thì phải thay.
+ Dầu turbin: không có hoặc
+ Dầu nén khí lạnh:
+ Dầu nén khí: không có hoặc
ĂN MÒN LƯU HUỲNH (Sulphure Corrosive – Ăn mòn bởi surphure)
Tại sao lại có chỉ tiêu này ?
Lưu huỳnh có sẳn trong dầu gốc
hay phụ gia. Nó có thể ở dạng hoạt động hoặc trơ khi kết hợp với các chất khác.
Lưu huỳnh hoạt động là loại tác dụng
được với kim loại đồng ở nhiệt độ cao và hậu quả không mong muốn của lưu huỳnh
là gây ăn mòn đồng. Chính từ lý do đó cho nên trong dầu biến thế người ta phải
yêu cầu dầu không có tính năng ăn mòn bởi surphure.
Vì:
Các cuộn dây đồng trong máy biến
thế được ngâm trong dầu và để ngoài trời nếu tính năng không bảo đảm sẽ gây ra
nguy hiểm cho máy biến thế do dây đồng bị ăn mòn và sự cách điện của các dây
không còn tác dụng và tạo cặn làm giảm tuổi thọ của dầu
Do đó:
Đối với dầu biến thế phải xác định
độ ăn mòn surphure hoặc độ ăn mòn bởi lá đồng đối với dầu mới.
Hậu quả không mong muốn của lưu
huỳnh là gây ăn mòn, như ăn mòn đồng. Tuy nhiên, do những hiệu ứng của phụ gia
cực áp, điều tiết quá trình chạy máy đã bù trừ tác dụng ăn mòn này. Do đó,
trong nhiều trường hợp S có trong dầu nhờn ở dạng phụ gia thường kết hợp với
nguyên tố khác (clor, photpho) như phụ gia chịu cực áp, chống mài mòn, chống
oxy hoá và chống ăn mòn hoá học.
ĂN MÒN LÁ ĐỒNG (100 độ C trong 3 giờ)
Khái niệm: Dầu thô khi khai thác
có chứa các hợp chất lưu huỳnh, phần lớn các hợp chất này được loại ra khỏi dầu
trong quá trình tinh luyện. Tuy nhiên, các hợp chất lưu huỳnh còn lại sẽ gây ăn
mòn nhiều kim loại khác nhau nhưng độ ăn mòn này không phải lúc nào cũng tương
quan với từng hàm lượng lưu huỳnh có trong dầu. Hiện tượng ăn mòn tuỳ thuộc vào
loại hợp chất hoá học của lưu huỳnh có trong dầu (hoạt động hay trơ)
Sự ăn mòn được định nghĩa như một
sự oxy hoá trên bề mặt kim loại gây nên sự tổn thất kim loại hay sự tích tụ các
cặn bẩn. Đối với các ổ trục bằng hợp kim đồng, các ống lót trục và các bộ phận
chuyển động của trục vít bằng đồng thau phải được bôi trơn bằng các loại dầu
không gây ăn mòn. Cũng như các loại dầu khác như: dầu thủy lực, dầu hàng không,
dầu cắt gọt kim loại, đặc biệt là dầu biến thế và máy nén khí lạnh phải không
gây ăn mòn đồng.
Vì vậy: Để xem xét dầu nhờn có thích hợp với các kim loại dễ bị ăn mòn hay không người ta phải tiến hành phép thử ăn mòn với tấm đồng.
Tags: cân điện tử đà nẵng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét